Mật tông là một trong những tông phái của Phật giáo, xuất phát từ Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VII, rồi sau đó được truyền bá sang Trung Hoa, Nhật Bản… và đặc biệt là phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở Tây Tạng, Mật tông còn được gọi là Kim cương thừa.
Kim cương thừa được coi như là con đường thẳng dốc đứng để đi lên đỉnh núi; điều đó vừa nói lên tính siêu việt, đồng thời cũng nói lên sự khó khăn và nguy hiểm của con đường, lối tu Mật giáo. Trong các kinh điển Đại thừa, có nhiều bộ kinh lồng vào những thần chú, Đà la ni như là để khai triển ý nghĩa sâu thẳm của tâm linh quả chứng hay ý lực chư Phật, Bồ tát; có lẽ đây là cơ sở để Mật giáo phát triển về sau.
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
Kim Cang Thừa còn gọi là Bí Mật Đại Thừa, Kim cang là kim cang chử(chày kim cang), cũng là vũ khí cầm tay của Ấn Độ giáo Nhân Đà La Thần,Phật giáo xưng là Đế Thích Thiên(indriya), có ý nghĩa là kiên cố bất hoại và tối phá tất cả chướng ngại. Nên Kim Cang Thừa có quan hệ mật thiết với Ấn Độ giáo, vì phần đông dân Ấn Độ tin vào Ấn giáo, tin vào thần chú mantra , thực hành thiền định du già yoga, phô diễn thần thông. Trong kinh Vệ Đà còn nhiều ấn tích và lưu trữ như âm om và namah, nhiều cách cầu nguyện và thần chú. Sau 500 năm, Đức Phật nhập diệt, không có ai có thể chinh phục được Bà La môn giáo và thần dân Ấn độ, Đễ chinh phục và làm được điều này, là lưu truyền Phật giáo vào lòng dân ân độ, nhiều vị Bồ Tát đã y theo tiên tri của Đức Phật, mới khai bảo tạng mà Đức Thích Ca đã thuyết giảng, đã được lưu trữ trong Đại Bảo Tháp Đà La Ni, cho phù hợp với dòng truyền pháp hợp thời đại ấy,chính là các kinh đà la ni. Bảo tháp đó chứa đựng các kinh ấy, là do Kim Cang Thủ Bồ Tát viết lại các bộ kinh về mantra và sadhana(nghi quỹ) do Đức Phật thuyết.
Về phương diện kinh điển, cấu trúc các bộ kinh chú, cũng có một số phần tương đồng với bà la môn giáo. Nhưng về phương diện ý nghĩa và thực hành pháp thì khác nhau rất rõ ràng. Bà la môn là quay về với tự thể của đấng tạo hóa là Tự Tại Thiên.Còn về Phật giáo mật thừa là quay về với bản tánh không bẩm sanh là đại ấn, thông qua phương tiện thần chú thông linh, tổng nhiếp thân khẩu ý tam mật thanh tịnh,kích thích tâm giác ngộ đã có, trở lại tâm tánh bản nguyên vô sanh vô diệt, bất khứ bất lai, thành tựu Phật quả. Đây cũng là Tổng chỉ của Kim Cang Mật Thừa nói chung, còn các thừa khác cũng như vậy. Nên trong Mật Thừa cũng có Đại Thừa và Thanh Văn Thừa, chỉ khác nhau ở cách trình bày giáo lý, giống nhau cùng một điểm đến là thành Phật.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.